Trong những năm qua, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, mà trực tiếp là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Quân ủy Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 806-NQ/ QUTW, ngày 31/12/2013 về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo, đưa hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trở thành trụ cột quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, là một trong những kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới, đồng thời là yếu tố để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Đây trở thành một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của quân đội trong thời bình, gắn chặt với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, sản xuất và công tác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, hợp tác quốc phòng không ngừng được mở rộng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 nước, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và 3 tổ chức quốc tế. Thiết lập quan hệ quốc phòng với các đối tác chủ chốt, gồm: 3 nước quan hệ đối tác hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện; 4 nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, 13 nước có quan hệ đối tác chiến lược; 13 nước có quan hệ đối tác hợp tác toàn diện(1).
Quan hệ hợp tác quốc phòng song phương tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu, thực chất. Với các nước có biên giới liền kề, hợp tác quốc phòng tiếp tục là ưu tiên hàng đầu nhằm giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ, xây dựng và giữ vững tuyến biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị và phát triển. Với các nước lớn, hợp tác quốc phòng góp phần xử lý tốt mối quan hệ, tạo thế đan xen chiến lược, vừa hợp tác, vừa đấu tranh để bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Với các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, hình thức và nội dung hợp tác ngày càng được mở rộng và làm sâu sắc hơn trên nhiều lĩnh vực. Hợp tác quốc phòng cũng được củng cố, bảo đảm sự ủng hộ của các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đối với các lợi ích chính đáng của Việt Nam trong khu vực. Với các nước bạn bè truyền thống, hợp tác quốc phòng được duy trì phù hợp với nhu cầu của Việt Nam và khả năng của các nước bạn.
Trên cơ sở đó, quan hệ quốc phòng song phương của Việt Nam với các đối tác được thực hiện với nhiều nội dung, hình thức khác nhau, mang lại hiệu quả thiết thực. Trong đó, thúc đẩy công tác đối ngoại biên giới thông qua việc ký kết, thực hiện hiệu quả các văn bản, thỏa thuận hợp tác với lực lượng bảo vệ biên giới của các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia; phối hợp đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên biên giới, di cư trái phép; tăng cường các hoạt động tuần tra chung trên bộ, trên biển; tổ chức giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới với Trung Quốc, Lào và xúc tiến với Campuchia, giao lưu biên cương thắm tình hữu nghị; kết nghĩa đồn - trạm, cụm bản; trao đổi kinh nghiệm; đào tạo cán bộ, góp phần xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị và phát triển. Giai đoạn 2016-2021, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ trì, tham mưu cho Bộ Quốc phòng tổ chức ký kết 30 văn bản hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hợp tác biên phòng, phối hợp quản lý, bảo vệ biên giới. Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng 25 tỉnh biên giới đất liền tổ chức ký kết biên bản hợp tác thuộc lĩnh vực biên phòng với 60 đại diện lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới tương ứng (cấp tỉnh) của các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia. Hai bên thường xuyên, luân phiên theo định kỳ tổ chức gặp gỡ, tọa đàm theo các cấp (cấp Bộ Tư lệnh; bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố và cấp đồn, trạm biên phòng), trao đổi, phối hợp hiệu quả trên các lĩnh vực hợp tác biên phòng. Tích cực, chủ động, phối hợp hiệu quả hoạt động tuần tra song phương với lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới các nước láng giềng được 1.817 lần/18.939 lượt cán bộ, chiến sĩ hai bên tham gia(2), qua đó, quản lý, kiểm soát chặt chẽ cửa khẩu, phối hợp đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm, hoạt động buôn lậu, xuất - nhập cảnh trái phép, đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy; bảo đảm an ninh, trật tự khu vực biên giới với các nước láng giềng.
Ngoài ra, hợp tác quốc phòng với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế được triển khai dưới nhiều hình thức để bảo vệ an ninh biển. Lực lượng hải quân, cảnh sát biển và các lực lượng hoạt động trên biển tăng cường giao lưu, hợp tác với các đối tác của các nước có vùng biển liền kề để thúc đẩy sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và giải quyết các vấn đề an ninh biển, thực hiện kiểm soát các vấn đề nảy sinh trên biển để phòng ngừa xung đột. Duy trì tốt công tác bảo đảm an ninh và thực thi pháp luật trên biển thông qua các cơ chế tham vấn song phương và ký kết các văn bản hợp tác; tổ chức tuần tra chung với hải quân và lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các nước; phối hợp trao đổi, chia sẻ thông tin về tìm kiếm cứu nạn và tham gia tích cực các hoạt động trong khuôn khổ đa phương. Xây dựng các cơ chế song phương và đa phương để đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống trên Biển Đông, hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên ASEAN trong quá trình thực hiện Tuyên bố về ứng xứ của các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng và thực hiện Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Hợp tác về đào tạo, trao đổi chuyên môn, nghiên cứu khoa học được chú trọng với số lượng cán bộ cử đi học ở nước ngoài ngày càng tăng, chuyên ngành được mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời, ta tiếp nhận hàng trăm học viên quân sự quốc tế tham gia các khóa học tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2016-2021, ta cử 3.954 cán bộ, học viên tham gia các khóa đào tạo dài hạn và ngắn hạn tại 39 quốc gia, như Nga, Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc… Với Lào, ta tiếp nhận 970 học viên quân sự sang đào tạo dài hạn và 2.066 cán bộ sang tập huấn ngắn hạn; với Campuchia, tiếp nhận 1.500 học viên quân sự sang đào tạo dài hạn và 3.683 cán bộ sang tập huấn ngắn hạn(3). Ngoài ra, thông qua các hoạt động giao lưu, huấn luyện, diễn tập chung với các nước, ta tranh thủ học hỏi nhiều kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến của đối tác, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, cũng như khả năng phối hợp hoạt động giữa các lực lượng quân đội của ta với lực lượng các nước trong khu vực và quốc tế.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, thương mại quân sự được quan tâm thúc đẩy và tiến hành chặt chẽ, hiệu quả; đa dạng hóa các quan hệ thương mại quốc phòng, cung cấp cho quân đội những trang thiết bị, vũ khí phù hợp với yêu cầu tác chiến. Trong khi duy trì các mối quan hệ thương mại với các bạn hàng truyền thống, Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác tiềm năng, thực hiện kết hợp chặt chẽ các hoạt động thương mại, kinh tế và hợp tác công nghiệp quốc phòng với các hoạt động quốc phòng khác. Tranh thủ và tận dụng mọi nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, sự hỗ trợ về vật chất, trang bị... của các đối tác, nhất là các nước công nghiệp phát triển để tăng cường tiềm lực quốc phòng. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp quân đội Việt Nam được đẩy mạnh; đến năm 2021, có 11 doanh nghiệp quân đội Việt Nam triển khai hoạt động đầu tư ra nước ngoài với tổng số 43 dự án tại 13 quốc gia(4). Hợp tác kỹ thuật quân sự có những bước phát triển mới về chất, từ chủ yếu mua sắm trước đây sang giai đoạn chuyển giao công nghệ, tự sửa chữa, cải tiến và sản xuất.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế về tình báo quốc phòng tiếp tục được duy trì, thúc đẩy thông qua các cơ chế hợp tác tình báo, góp phần nắm bắt quan điểm, chủ trương của các nước đối với những vấn đề quốc tế, khu vực có liên quan đến an ninh, lợi ích của Việt Nam. Tích cực vận động các nước, các tổ chức quốc tế ủng hộ công tác khắc phục hậu quả bom mìn và chất độc da cam/dioxin tại Việt Nam. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp, Bộ Quốc phòng kịp thời đề xuất nhiều nội dung, sáng kiến hợp tác phù hợp với tình hình mới, như chia sẻ kinh nghiệm về công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19, hỗ trợ trang, thiết bị y tế, thực hiện tốt “ngoại giao vaccine”. Thông qua kênh ngoại giao quốc phòng, ta vận động các đối tác, như Cuba, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Đức, Anh, Mỹ... hỗ trợ cho Bộ Quốc phòng Việt Nam hàng trăm nghìn liều vaccine, thuốc điều trị, vật phẩm y tế phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Các quan hệ quốc phòng song phương góp phần tích cực vào việc xây dựng lòng tin, duy trì quan hệ hữu nghị với các nước, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương tiếp tục có những bước phát triển tích cực cả về lượng và chất. Đối ngoại quốc phòng đa phương có sự chuyển biến mạnh từ “tham dự” sang “chủ động đóng góp xây dựng định hình luật chơi chung”. Tham gia đầy đủ, liên tục các cơ chế hợp tác quân sự, quốc phòng do ASEAN dẫn dắt, tham gia có trách nhiệm vào các diễn đàn an ninh quốc tế lớn, các tổ chức đa phương quốc tế và khu vực. Việt Nam đảm nhận và chủ trì thành công các hoạt động hợp tác thực chất; tích cực cử lực lượng quân đội tham gia các hoạt động thực tế trong khuôn khổ ASEAN và hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Lãnh đạo cấp cao Bộ Quốc phòng thường xuyên tham dự và phát biểu tại các diễn đàn an ninh quốc tế lớn, như Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á (Singapore), Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh (Trung Quốc), Hội nghị An ninh quốc tế Moscow (Nga)... tạo dư luận tốt cả trong nước và quốc tế về vai trò tích cực, chủ động và trách nhiệm của Việt Nam, góp phần bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam. Việt Nam coi Liên hợp quốc là đối tác hợp tác quốc phòng quan trọng, ủng hộ và tích cực tham gia thực hiện các sáng kiến hợp tác quốc phòng đa phương có lợi cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. Trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, sự tham gia của Việt Nam mở rộng cả về hình thức, quy mô và địa bàn, góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, cũng như tăng cường khả năng hội nhập quốc tế và làm việc trong môi trường đa phương của Quân đội nhân dân Việt Nam, được Liên hợp quốc và các đối tác quốc tế đánh giá cao, góp phần củng cố lòng tin chiến lược, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước và quân đội trên trường quốc tế.
Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng lãnh đạo Bộ Quốc phòng các nước ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN Lim Jock Hoi tại Hội nghị hẹp Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN. (Ảnh: TTXVN)
YÊU CẦU ĐỐI VỚI TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC PHÒNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, trong đó “hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn... Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan”(5); cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Theo đó, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó đòi hỏi việc tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Một là, hợp tác quốc phòng phải góp phần giữ vững mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Mọi hoạt động hợp tác quốc tế phải nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong đó “tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(6). Hợp tác quốc phòng phải hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (7). Trong đó hướng đến mục tiêu “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(8). Hợp tác quốc phòng phải trực tiếp góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tăng cường uy tín, vị thế, ảnh hưởng của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế, đưa Việt Nam trở thành một trong những thành viên giữ vai trò quan trọng trong các cơ chế hợp tác quốc phòng của khu vực. Đồng thời, hợp tác quốc phòng góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo cơ sở nền tảng để phát triển toàn diện đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Hai là, hợp tác quốc phòng luôn bám sát đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Hợp tác quốc phòng phải “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” (9) trên tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (10). Thường xuyên quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn. Đồng thời, mọi hoạt động hợp tác quốc phòng đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng giữ quyền độc tôn lãnh đạo hoạt động đối ngoại quốc phòng; quyền lãnh đạo đó không san sẻ, chia sẻ cho các lực lượng, tổ chức chính trị - xã hội khác. Đảng xác định quan điểm, chủ trương, phương châm, mục tiêu, nội dung, phương thức hoạt động đối ngoại quốc phòng. Mọi hoạt động hợp tác quốc phòng đều phải bám sát quan điểm, chủ trương, phương châm, mục tiêu, nội dung, phương thức mà Đảng xác định. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động này được cụ thể hóa thông qua vai trò quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Bộ Quốc phòng và chỉ huy các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ba là, đẩy mạnh hợp tác song phương, nâng tầm hợp tác đa phương về quốc phòng, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phương châm đối ngoại: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(11). Đặc biệt, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại và toàn cầu hóa cần “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” (12) để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Do vậy, cần đẩy mạnh hợp tác quốc phòng song phương với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Tiếp tục đưa các quan hệ hợp tác quốc phòng đã được thiết lập giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực và hiệu quả, phù hợp với từng đối tác, tình hình thế giới và điều kiện, nhu cầu của đất nước; tạo sự đan xen, gắn kết, ràng buộc và cân bằng lợi ích về chính trị với quốc phòng, an ninh giữa Việt Nam với các nước.
Nâng tầm hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia; chủ động, tích cực cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh; tham gia và đóng góp định hình các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh mà Việt Nam là thành viên, trước hết là các cơ chế do ASEAN giữ vai trò trung tâm, như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Sẵn sàng tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh phù hợp với khả năng và lợi ích của Việt Nam, trong đó có các cơ chế quốc phòng, an ninh khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, Liên minh châu Âu và Liên hợp quốc. Tiếp tục đóng góp thực chất, hiệu quả và mở rộng quy mô, phạm vi tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; huấn luyện, diễn tập chung về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tìm kiếm cứu nạn; hợp tác quốc tế khắc phục hậu quả chiến tranh; tích cực tham gia nỗ lực chống phổ biến vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh đa phương và cơ quan pháp lý quốc tế khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia.
Tuần tra chung tuyến biên giới Việt Nam - Lào (Ảnh: Nguyễn Trung Thành/ nhiepanhdoisong.vn)
Hợp tác bảo vệ và giao lưu hữu nghị biên giới là một trong những ưu tiên đối ngoại quốc phòng của Việt Nam nhằm củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển. Tăng cường hợp tác tuần tra chung, trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia có chung đường biên giới trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; phòng, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, di cư, nhập cư bất hợp pháp; tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai ở khu vực biên giới. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với hải quân và lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các nước nhằm tăng cường xây dựng lòng tin, ngăn ngừa xung đột và ứng phó với những thách thức an ninh chung, tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế. Hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong việc chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nguồn lực giúp Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh.
Bốn là, hợp tác quốc phòng phải tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả.
Hợp tác quốc phòng phải tích cực, chủ động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm nhưng phải có lộ trình phù hợp với điều kiện, khả năng và yêu cầu trong từng giai đoạn; phải chắc chắn, thận trọng, không chủ quan, nóng vội, không bị động, bất ngờ; kiên định về chiến lược, nguyên tắc, nhưng linh hoạt về sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ” để biết mình, biết người, luôn làm chủ tình thế, “biết thời, biết thế”, “cương nhu kết hợp”, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Đồng thời, hợp tác quốc phòng phải đạt được hiệu quả, đạt được mục tiêu đã xác định trong từng công việc, từng thời điểm cụ thể; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, làm phá sản mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước” (13). Hợp tác quốc phòng phải quán triệt và thực hiện tinh thần chủ động tiến công, mềm mại, khôn khéo, nhưng kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”. Chủ động dự báo, nắm chắc tình hình, xu thế vận động của thế giới, nhất là quan hệ giữa các nước lớn có liên quan trực tiếp đến Việt Nam để đề ra chính sách quốc phòng và chủ trương hợp tác quốc phòng phù hợp; làm chủ tình hình, kiên định, kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”. Để thực hiện được điều đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân; thường xuyên chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng có đủ bản lĩnh chính trị và năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trước diễn biến mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực, hoạt động hợp tác quốc phòng nói riêng, hội nhập quốc tế nói chung phải luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện "một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” (14). Trong đó, luôn xác định lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ môi trường hòa bình, xây dựng lòng tin chiến lược, ngăn ngừa nguy cơ xung đột là mục tiêu cao nhất. Thường xuyên nắm vững đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; sáng tạo, linh hoạt trong quá trình chỉ đạo, tổ chức các hoạt động đối ngoại quốc phòng. Để thực hiện được điều đó, phải luôn đặt công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tổng thể hội nhập quốc tế và đối ngoại chung của cả nước; kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với đối ngoại, tạo sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong điều kiện mới./.
PGS. TS. TẠ VIỆT HÙNG - TRẦN NGỌC NGÂN
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
__________________________
(1) (2) (3) (4) Bộ Quốc phòng: Báo cáo tổng kết công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng giai đoạn 2016 - 2021, phương hướng nhiệm vụ đến năm 2025, ngày 14/4/2022.
(5) (6) (7) (8) (9) (10) (12) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.105, 162, 156, 161-162, 161, 162, 110, 163.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.1, tr.XXIII.
(14) Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, https://baochinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-doi-ngoai-toan-quoc-102305526.htm.
Nguồn tin: www.tuyengiao.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn