Tháng 9/1950, núi rừng Cao Bằng - Lạng Sơn bừng dậy khí thế chiến dịch lịch sử, nơi cả dân tộc đồng lòng dồn sức ra trận. Trong khí thế sục sôi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận, sát cánh cùng Bộ Chỉ huy tối cao, theo dõi từng bước tiến công. Hình ảnh Bác Hồ trên đài quan sát Báo Đông (xã Đức Long), ánh mắt dõi theo trận đánh Đông Khê, đã trở thành biểu tượng cao đẹp, thiêng liêng của dân tộc.
Quân với dân hợp lực ra tiền tuyến
Sau thắng lợi chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 và tiếp theo những trận đánh thắng giòn giã trên đường số 4 và đường số 3 năm 1948 - 1949, quân đội ta từng bước trưởng thành. Đầu năm 1950, khi Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến dịch Biên giới trên đường số 4, không khí chuẩn bị từ Cao Bằng lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc.
Tại huyện Thạch An, đồng chí Dương Công Hoạt, Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp xuống cơ sở kiểm tra, chỉ đạo, khẩn trương huy động sức dân. Tháng 3/1950, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 2 họp khẩn, xác định nhiệm vụ trọng tâm: toàn dân tập trung sức lực cùng bộ đội, phục vụ Mặt trận Phan Đình Phùng (Mặt trận IV). Người lo lương thực, người đón bộ đội, người tìm địa điểm tập kết ở các xã: Lê Lợi, Danh Sĩ, Đức Long, Thái Cường, Đức Xuân, Canh Tân… Mỗi việc làm đều hướng về một mục tiêu: quyết giành thắng lợi.
Ngày 9/9/1950, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Cao - Bắc - Lạng vang lên: “Hỡi đồng bào yêu quý! Quân ta mở chiến dịch trên mặt trận Cao - Bắc - Lạng, chiến dịch này rất quan trọng cho Cao - Bắc - Lạng và cho cả toàn quốc… Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào ba tỉnh, các ủy ban kháng chiến và hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to. Đồng bào hãy tiến lên làm gương kiểu mẫu cho nhân dân toàn quốc, giúp cho chiến dịch ta được thắng lợi”. Lời hiệu triệu ấy như ngọn lửa thắp bừng niềm tin chiến thắng từ miền núi đến miền xuôi, ai nấy đều chung một quyết tâm. Già, trẻ, gái trai tỉnh Cao Bằng không quản gian khổ, từ Nguyên Bình, Hà Quảng, Trà Lĩnh… gùi gạo, mở đường, bắc cầu; hàng vạn người băng rừng, vượt núi, hòa vào dòng dân công hùng hậu chuẩn bị cho tiền tuyến, phục vụ bộ đội ăn no, đánh thắng giặc… Nhiều tấm gương dân công hỏa tuyến được biểu dương trong giai đoạn này, như chị Đinh Thị Đậu, Đinh Thị Bỏng ở Đức Xuân, Đàm Thị Mơ ở Bản Chang…
Không chỉ sức người, mà cả niềm tin, ý chí, lòng yêu nước đã cùng hun đúc thành sức mạnh vô song làm nên thắng lợi vang dội của Chiến dịch Biên giới năm 1950. Chỉ riêng trong 3 tháng cao điểm chiến dịch (7 - 10/1950), Cao Bằng có 78.824 người đi dân công với trên hơn 50% là phụ nữ, tính từ đầu năm 1950, đã huy động 5 triệu 70 vạn ngày công, bình quân mỗi người đóng 100 ngày công; 2 vạn nam nữ thanh niên các dân tộc tham gia bộ đội trực tiếp, chiến đấu ngoài chiến trường; đóng góp trên hơn 30 tấn lương thực, hàng chục nghìn mét vải, cùng hàng vạn đồng tiền kháng chiến được quyên góp. Mỗi gánh củi, gùi gạo, hòm đạn, quân nhu… đều thấm đẫm niềm tin tất thắng.
Tả Phầy Tẩư hội tụ tầm nhìn chiến lược
Giữa những ngày sục sôi chuẩn bị cho một chiến dịch mang tầm vóc quyết định, bản Tả Phầy Tẩư, thuộc xã Quảng Uyên trở thành nơi hội tụ của những trí tuệ lớn. Ngày 25/7/1950, Ban Thường vụ Trung ương ra nghị quyết thành lập Đảng ủy Mặt trận Biên giới, giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư. Ngày 30/7/1950, trong căn nhà sàn mộc mạc của ông Lã Văn Ho tại xóm Tả Phầy Tẩư (nay là Đà Vỹ), xóm Quốc Phong, xã Quảng Uyên được chọn làm Sở Chỉ huy Chiến dịch Biên giới năm 1950, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã họp, đưa ra mục tiêu trọng yếu: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng toàn tuyến biên giới từ Cao Bằng đến Thất Khê, mở thông đường liên lạc quốc tế.
Ban đầu, kế hoạch hướng vào thị xã Cao Bằng, nơi được coi là “cánh cửa thép” của quân Pháp. Nhưng sau nhiều chuyến trinh sát, Bộ Chỉ huy nhận định: cứ điểm quân Pháp tại thị xã Cao Bằng quá kiên cố, khó công phá trong thời điểm này. Trái lại, Đông Khê tuy nhỏ bé nhưng lại giữ vị trí then chốt. Nếu Đông Khê thất thủ, Cao Bằng sẽ lập tức bị cô lập, buộc địch phải tung lực lượng ứng cứu, tạo thời cơ để ta tiêu diệt quân tiếp viện. Ngày 16/8/1950, tại Tả Phầy Tẩư, quyết định lịch sử được đưa ra: chiến dịch sẽ mở màn bằng trận đánh Đông Khê. Chiến dịch Biên giới lấy tên là Chiến dịch Lê Hồng Phong II.
Chúng tôi trở lại Tả Phầy Tẩư, đến nhà ông Lã Văn Ho, nơi được chọn làm Sở Chỉ huy Chiến dịch Biên giới năm 1950, ông Lã Văn Thảo (con trai ông Lã Văn Ho) dẫn vào nhà giới thiệu chi tiết. Giọng ông bồi hồi: Đây là chỗ Bác Hồ thường ngồi gần cửa sổ, kia là nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghỉ. Ngày ấy, cả gia đình tôi góp sức lo cơm nước cho các đồng chí. Bức ảnh chụp Đảng ủy Mặt trận ngay trước hiên nhà, chúng tôi coi như báu vật thiêng liêng truyền đời. Lời kể, ánh mắt và cả sự xúc động của ông như khiến thời khắc lịch sử 75 năm trước tái hiện lại, để Tả Phầy Tẩư mãi gắn liền với niềm tự hào của người dân nơi đây, mảnh đất đã chứng kiến một quyết định quan trọng làm thay đổi cục diện kháng chiến.
Từ đỉnh núi Báo Đông - Người quan sát trận địa
Trở lại Đức Long hôm nay, chúng tôi vượt 845 bậc đá đến đài quan sát Báo Đông. Khí thế năm xưa Bác Hồ chống gậy nhìn xuống trận địa vẫn như hiện lên giữa núi rừng trùng điệp.
Ngày 5/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Tuyên Quang, hành quân vượt qua Bắc Kạn, Nguyên Bình để vào Cao Bằng. Chỉ 4 ngày sau, Người có mặt tại Lam Sơn (Hòa An), nghe báo cáo và trực tiếp chỉ thị Tỉnh ủy.
Ngày 11/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Sở Chỉ huy Chiến dịch tại Tả Phẩy Tẩư nói chuyện với Hội nghị cấp Trung đoàn: “Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết định thắng trận này”. Tại Sở Chỉ huy, Người đã trực tiếp nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Mặt trận thay mặt Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch báo cáo phương án tác chiến do Hội nghị Đảng ủy Mặt trận thông qua ngày 16/8/1950, sau đó Người trực tiếp phê chuẩn quyết tâm của Bộ Chỉ huy Chiến dịch gồm bốn bước. Người nói: "Một là, đánh Đông Khê. Hai là, đánh quân viện. Ba là, đánh Thất Khê. Bốn là, đánh Cao Bằng. Tất cả là bốn bước".
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ta đánh vào Đông Khê trước là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu. Nhưng đây lại là điểm xung yếu trong hệ thống phòng thủ biên giới của địch. Cứ điểm Đông Khê bị diệt, địch khác nào như con thú bị đánh què cẳng, nhất định phải lồng lộn lên phản công, tìm mọi cách chiếm lại để giữ Cao Bằng, hoặc để đón quân ở Cao Bằng rút về. Ta sẽ dàn quân ở những nơi do ta lựa chọn, bủa lưới thép săn thú vào tròng. Quân viện của địch, ta đã diệt được, lúc ấy ta muốn chiếm Cao Bằng không khó lắm. Nếu chúng lại tự rút bỏ Cao Bằng càng tốt cho ta đánh địch trong vận động”.
Chuẩn bị bước vào chiến dịch, Người kiểm tra kế hoạch tác chiến, công tác chuẩn bị hậu phương, theo dõi kịp thời diễn biến Chiến dịch, góp những ý kiến chỉ đạo và động viên cán bộ, bộ đội, dân công; duyệt một đơn vị bộ đội trước khi đánh chiếm đồn Đông Khê… Đi đến đâu Người cũng tiếp thêm sức mạnh ý chí, tinh thần chiến đấu cho toàn dân, toàn quân niềm tin chiến thắng. Hình ảnh Bác Hồ giản dị mà kiên nghị, xuất hiện giữa tiền tuyến, đã làm nức lòng hàng vạn chiến sĩ và đồng bào bước vào trận đánh quan trọng của chiến dịch. Cảnh Bác Hồ lên núi đứng trên đài quan sát núi Báo Đông, xã Đức Long theo dõi diễn biến trận đánh Đông Khê đã trở thành biểu tượng cao đẹp trong lịch sử dân tộc ta.
Theo hồi ký của ông Đặng Văn Việt “Tôi luôn nhớ khoảnh khắc được gặp Người: Bác hỏi nhỏ: Chú xem có chỗ nào Bác đến gần mặt trận được không? Sau đó, chúng tôi bố trí đưa Bác lên đài quan sát của tổ trinh sát tiền tiêu. Hôm ấy, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Năng An chụp được bức ảnh ghi lại khoảnh khắc quý giá của lịch sử: Bác ngồi trên đỉnh núi, chống gậy nhìn xuống trận địa Đông Khê. Bức ảnh ấy không chỉ là tư liệu, mà là biểu tượng lịch sử cao đẹp khắc họa chân dung Lãnh tụ dân tộc cùng kề vai, sát cánh ra trận với toàn quân, toàn dân nhân lên thành sức mạnh chiến thắng quân Pháp kiêu ngạo, hùng mạnh. Trên đỉnh núi Báo Đông, Bác viết bài thơ “Lên núi”: Chống gậy lên non xem trận địa/Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây/Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”. Từ tầm nhìn chiến lược của Người, sự lãnh, chỉ đạo sáng suốt của Đảng đã thắp lên ý chí quyết thắng cho Chiến dịch Biên giới năm 1950.
Ngày nay, đi qua 845 bậc đá lên đài quan sát Báo Đông, chúng tôi như vẫn nghe vọng lại lời thơ khí phách hiên ngang của Người. Mỗi tấc đất, hòn đá, rừng cây nơi ấy đã thấm mồ hôi của vị Lãnh tụ kính yêu, để tiếp thêm sức mạnh tinh thần vô song cho dân tộc Việt Nam.
Bước vào năm 1950, tình hình kháng chiến chống Pháp chuyển biến mạnh mẽ: lực lượng ta phát triển, bộ đội trưởng thành nhanh. Từ ngày 21/1 - 2/2/1950, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, đánh giá tình hình và quyết định chuyển sang tổng phản công, với chủ trương tiêu diệt sinh lực địch, thu hồi lãnh thổ, đánh bại ý đồ xâm lược. Trên mặt trận Tây Bắc diễn ra Chiến dịch Lê Hồng Phong I (7/2 - 7/3/1950). Ta tiến công ở Lào Cai và Yên Bái, mở rộng căn cứ Tây Bắc và thông đường liên lạc quốc tế phía tây. Tháng 6/1950, Trung ương quyết định mở Lê Hồng Phong II (Chiến dịch Biên giới) ở vùng biên Đông Bắc, thiết lập Liên khu biên giới gồm nhiều phân khu và tiểu khu. Thực hiện chủ trương này, ngày 7/7/1950 Bộ Tổng Tư lệnh phát động chiến dịch Cao - Lạng nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng vành đai Đông Bắc, mở giao lưu quốc tế, củng cố, mở rộng căn cứ Việt Bắc. Ngày 26 - 27/5/1950, quân ta mở Chiến dịch Phan Đình Phùng đánh đồn Đông Khê lần thứ nhất là trận đánh công kiên quy mô lớn, đánh vào pháo đài kiên cố của địch. Qua chiến đấu, quân ta đã trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để đánh trận Đông Khê lần thứ hai, trong Chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950 và trận đánh Đông Khê lần thứ hai vinh dự có Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ra mặt trận.
Nhóm phóng viên
Bài 1: Quân - dân Cao Bằng nô nức ra mặt trận.
Bài 2: “Hùm xám Đường số 4” - Huyền thoại từ những trận đánh lấy ít thắng nhiều.
Bài 4: Vang dội chiến thắng Đông Khê, mở đường giải phóng Cao Bằng.
Nguồn tin: baocaobang.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn