Mùa Xuân năm 1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, kết thúc chặng đường dài 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân sôi nổi, đầy hiểm nguy của Người ở nước ngoài; đồng thời là mốc son vô cùng quan trọng, đánh dấu bước ngoặt phát triển của cách mạng Việt Nam. Quê hương Cao Bằng vinh dự và tự hào được thay mặt Nhân dân cả nước đón Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, được Người chọn làm căn cứ địa cách mạng đầu tiên, trở thành “đại bản doanh” của cả nước, “cội nguồn của cách mạng Việt Nam” - nơi Người thắp sáng ngọn lửa cách mạng và lan tỏa khắp mọi miền đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Với khát vọng tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, ngày 05/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc bôn ba khắp năm châu, bốn biển, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để rồi tìm thấy chân lý của thời đại: chủ nghĩa Mác - Lênin. Tìm được con đường cứu nước, Người mong mỏi ngày được trở về nước để “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. Dù luôn phải đối mặt với sự kiềm tỏa, khống chế gắt gao của kẻ thù, nhưng trong quá trình hoạt động ở nước ngoài, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn theo dõi sát sao tình hình trong nước để tìm thời điểm thích hợp trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đầu năm 1940, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển mau chóng. Sự kiện Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức (tháng 6/1940) theo Người nhận định “là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.
Cao Bằng, mảnh đất “phên giậu” phía Đông Bắc của Tổ quốc, chính là sự lựa chọn của Người. Ngày 28/01/1941 (tức ngày mùng Hai Tết Tân Tỵ), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua mốc 108 (nay là cột mốc 675) biên giới Việt Nam - Trung Quốc về đến Pác Bó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước và chọn Cao Bằng là một sự tính toán kỹ lưỡng liên quan tới triển vọng của phong trào cách mạng cả nước. Với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ thiên tài, Người đã phát hiện Cao Bằng là nơi hội tụ đủ cả “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà” để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước.

Ngày 28/01/1941 Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
(Tranh Trịnh Phòng, phóng tác Hoàng Ích Thu)
Tháng 10/1940, khi chính thức quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thế tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”. Tầm nhìn của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chọn Cao Bằng là một địa bàn có ý nghĩa chiến lược cho cách mạng giải phóng dân tộc, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa một địa phương với toàn quốc, giữa phong trào cách mạng một vùng với phong trào cách mạng cả nước, nhận thức, đoán định được hiện tại và triển vọng tương lai.
Từ khi Bác về, Pác Bó trở thành đại bản doanh của căn cứ Việt Bắc, là cái nôi đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Quãng thời gian Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Cao Bằng tuy không dài, nhưng nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng gắn liền với tên tuổi của Người và lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam.
Với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại lán Khuổi Nặm (bản Pác Bó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng). Hội nghị đã hoạch định đường lối và quá trình thực hiện cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang; bổ sung và hoàn chỉnh “Chính sách mới của Đảng” được nêu ra từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh (ngày 19/5/1941), nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo... để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Về phương pháp cách mạng, Hội nghị chỉ rõ “Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay”. Từ Cao Bằng, Mặt trận Việt Minh đã phát triển mạnh mẽ, đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tham gia các tổ chức cứu quốc, xây dựng chính quyền cách mạng. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Để xây dựng lực lượng và vận động quần chúng nhân dân làm cách mạng, Người chỉ đạo bồi dưỡng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, từng bước xây dựng lực lượng vũ trang tập trung; chỉ đạo xây dựng quan hệ quốc tế; chỉ đạo xuất bản báo “Việt Nam độc lập” nhằm tuyên truyền, nâng cao dân trí, cổ vũ, động viên cán bộ, hội viên cứu quốc, Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, xây dựng đời sống văn hóa mới. Người đã chỉ thị thành lập Đội du kích Pác Bó, thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; chỉ đạo triển khai các đội quân Nam tiến, Đông tiến, Tây tiến để mở rộng căn cứ địa cách mạng, thành lập khu giải phóng; tổ chức các “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn” và trực tiếp mở các lớp giảng dạy, huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ, sáng tác nhiều thơ, ca cách mạng, biên soạn, biên dịch nhiều tài liệu chính trị, quân sự... Từ Pác Bó, Người đã nhóm lên ngọn lửa cách mạng và ngọn lửa đó đã bùng cháy, lan tỏa ra khắp cả nước, soi sáng, dẫn đường cho toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay Nhân dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Ngay sau đó, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với cả nước, Nhân dân Cao Bằng bước vào cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” chống thực dân Pháp xâm lược. Đầu năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta giành được nhiều thắng lợi quan trọng, để đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới, tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Biên giới. Tỉnh Cao Bằng được chọn làm chiến trường chính, đồng thời cũng là hậu phương tại chỗ cung cấp sức người, sức của phục vụ chiến dịch. Với khẩu hiệu “tất cả cho chiến dịch toàn thắng”, Tỉnh uỷ phát động quân và dân trong tỉnh tích cực huy động sức người, sức của tham gia chiến dịch. Đây cũng là chiến dịch đầu tiên và là chiến dịch duy nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận chỉ đạo, động viên quân và dân chiến đấu. Hình ảnh “Bác Hồ ra trận” thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của Đảng và Nhân dân ta, là nguồn sức mạnh động viên tinh thần vô cùng to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho toàn quân, toàn dân ta quyết tâm giành thắng lợi, nô nức “thi đua giết giặc lập công”. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới là thắng lợi của Nhân dân cả nước, trong đó có đóng góp to lớn của Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Cao Bằng. Chiến thắng Biên giới năm 1950, giải phóng Cao Bằng (03/10/1950) mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc Cao Bằng. Kể từ đây, Nhân dân Cao Bằng được sống trong độc lập, tự do, được làm chủ chế độ mới, bước vào xây dựng đời sống mới; là hậu phương vững mạnh, tiếp tục đóng góp sức người, sức của, góp phần đưa cuộc kháng chiến toàn quốc đến thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954, tiến tới Đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc tháng 02/1979, từ đó cùng cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, kế thừa và phát huy truyền thống của các thế hệ cha anh đi trước, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng không ngừng phát huy truyền thống quê hương cội nguồn cách mạng, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định đường lối đổi mới của Đảng; vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng. Là một tỉnh miền núi, điểm xuất phát thấp, gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với bản lĩnh, ý chí phấn đấu vươn lên và tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tỉnh đã đề ra chủ trương, cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho Nhân dân. Cao Bằng đã và đang tạo đà vươn lên mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực.
Sau 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, hầu hết các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra, năm sau cao hơn năm trước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đẩy mạnh. Các mục tiêu chiến lược của tỉnh có bước đột phá: Đã tổ chức công bố Quy hoạch tỉnh Cao Bằng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh đến năm 2040 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt góp phần tạo hành lang vững chắc, mở rộng tầm nhìn và khát vọng để Cao Bằng khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế, trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh, năng động, xanh, bền vững và toàn diện trong thời kỳ mới. Sân bay Cao Bằng được bổ sung vào tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tạo điều kiện thúc đẩy liên kết giữa Cao Bằng với các tỉnh, thành phố trong nước và hội nhập quốc tế. Các cặp cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu song phương được mở mới tạo ra không gian kết nối mới với Trung Quốc và các nước ASEAN, định vị lại vai trò chiến lược của Cao Bằng từ cửa ngõ biên giới trở thành điểm kết nối giao thương quan trọng trong hành lang kinh tế và logistics khu vực. Khu cảnh quan thác Bản Giốc (Việt Nam) - Đức Thiên (Trung Quốc) vận hành chính thức góp phần thúc đẩy mạnh các hoạt động du lịch, giao lưu, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, cùng phát triển giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc… Tuyến đường bộ cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn) - Trà Lĩnh (Cao Bằng) được tích cực triển khai, thông tuyến giai đoạn 1 và việc được Chính phủ giao làm chủ quản Dự án đường bộ cao tốc Bắc Kạn - Cao Bằng, mở ra kỳ vọng tạo đột phá chiến lược về hạ tầng giao thông, kết nối vùng. Diện mạo đô thị, nông thôn, miền núi có nhiều đổi mới. Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng không ngừng được cải thiện. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực; hoàn thành sớm việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị bảo đảm tinh gọn, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Khối đại đoàn kết các dân tộc không ngừng được củng cố và phát huy. Tình hình chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Với những thành tích xuất sắc trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 2018, đồng chí Hoàng Đình Giong, người con ưu tú của quê hương Cao Bằng vinh dự được Đảng và Nhà nước công nhận là lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam. Hiện nay, toàn tỉnh có 416 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng, 53 tập thể Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 05 tập thể Anh hùng Lao động và 27 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động. Những thành tựu đó đã và đang tiếp tục bồi đắp niềm tin, khơi dậy khát vọng vươn lên, tạo nền tảng tinh thần vững chắc để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc Cao Bằng vững bước trên con đường đổi mới.

Bác Hồ hỏi thăm các cụ già trong chuyến thăm Pác Bó năm 1961. (Ảnh tư liệu)
Trong giai đoạn lịch sử mới, đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát huy truyền thống quê hương cội nguồn cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng tiếp tục nêu cao ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã đề ra, xây dựng tỉnh Cao Bằng phát triển nhanh, bền vững, nâng cao đời sống Nhân dân, góp phần cùng cả nước vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Cao Bằng (ngày 21/02/1961): “Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm trở thành một trong những tỉnh gương mẫu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như trước đây Cao Bằng là một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc...”.
Nông Thanh Tùng
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ,
Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.47.
Vũ Anh: Những ngày gần Bác, in trong: Bác Hồ về nước, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986, tr.15.
Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.37.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.49.